Theo Fine Mold tìm hiểu được Polyethylen là chất dẻo kết tinh từng phần, không phân cực, có thể biến dạng rất tốt, nhưng dán rất kém. Người ta phân biệt PE-LD khối lượng riêng thấp và PE-HD khối lượng riêng cao. PE có giá thành tương đối rẻ và được gia công với số lượng lớn.
Cùng Fine Mold tìm hiểu về ứng dụng
PE-LD:
• Vỏ bọc dây điện, thùng chứa để vận chuyển, chai, ống tuýp, túi xách, màng co rút, túi, màng
PE-HD:
• Bình chứa nguyên liệu, ống dẫn gas/nước, xô, bồn chứa dầu đốt, két đựng chai lọ, thùng rác, bình xăng
Gia công:
PE có thể gia công rất tốt bằng phương pháp tạo dạng (đúc phun, ép đùn, thối màng). Do vùng đàn hồi nhiệt rất thấp nên gia công biến dạng không tốt. PE có thể được hàn rất tốt. Tuy nhiên, tính hàn giảm mạnh với chiều dài mạch tăng dần, do đó PE cao phân tử không thể hàn được nữa. Ngoài ra, tính năng dán đối với PE cũng rất kém do tính không phân cực, vì vậy chỉ có thể thực hiện được khi đã xử lý trước. Việc sơn phủ lớp cũng tương tự.
Các sản phẩm bằng polyethylen
Polypropylen
Polypropylen (còn gọi là polypropen) được sản xuất bằng phản ứng trùng hợp và thuộc nhóm polyolefin. Các nhóm -CH, có thể phân bố một bên (PP isotactic), hoặc luân phiên cả hai bên (PP syndiotactic) hoặc không theo trật tự nào (PP atactic). Trong kỹ thuật, PP isotactic phổ biến nhất, vì thế PP cũng là nhựa kết tinh từng phần. Hãng Hoesch AG tại Đức sản xuất PP lần đầu tiên vào năm 1957.
Theo Fine Mold tìm hiểu các chất dẻo quan trọng cùng các đặc tính và ứng dụng của chúng. Tuy nhiên, đây có thể chỉ là danh sách các loại được sử dụng phổ biến nhất. Các loại chất dẻo thật đặc biệt có thể được tham khảo qua các tài liệu có liên quan. Những thông tin khác như tên thương mại, đặc tính cháy hoặc số lượng giá trị bền vững được trích dẫn trong bảng liệt kê ở cuối mỗi chương trình. Chất lượng được đưa vào dưới dạng khối để định dạng. Đó là một khối dữ liệu chưa được định dạng ở trạng thái rắn hoặc linh hoạt, được gia công bằng phương pháp tạo ra dữ liệu tốt nhất để trở thành chất liệu nạp mẫu (bán thành phẩm hoặc chi tiết định hình).
Nhựa nhiệt dẻo cùng tìm hiểu với Fine Mold nhé
Theo Fine Mold tìm hiểu được trong các chất dẻo, nhựa nhiệt dẻo có ý nghĩa lớn nhất dựa trên số lượng sản phẩm và sự đa dạng của ứng dụng. Nhất là trong công nghiệp ô tô, đồ chơi và đồ gia dụng, trong lĩnh vực đóng gói và trong kỹ thuật xây dựng, và cả kỹ thuật y khoa với nhu cầu liên tục gia tăng. Thông thường, nhựa nhiệt dẻo được sử dụng như khối nguyên liệu dưới dạng hạt hoặc bột. Dạng thường nhất là hạt, dạng hạt đậu hoặc hình trụ với đường kính từ 3 đến 4 mm. Các hạt phải có khả năng tính toán dễ dàng. Bột nguyên liệu khối sẽ được sử dụng khi cần trộn thêm vào các chất phụ gia.
Y tá thường xuyên theo yêu cầu
Polyetylen PE-LD và PE-HD
Polyethylen (cũng gọi là polyethen) – tên tắt PE – được sản xuất từ ethylen bằng phản ứng trùng hợp và thuộc nhóm polyolefin cùng với polypropylen và polybutylen. Ngày nay, PE được sản xuất theo hai phương pháp khác nhau:
Phương pháp áp suất cao, được sáng chế tại Anh vào năm 1939, tạo ra polyethylen với đại phân tử phân nhánh. Sự phân nhánh làm cho các phân tử không thể sát lại với nhau, PE-LD – một chất có tỷ trọng thấp (LD = low density) và độ kết tinh thấp – được hình thành.
Tại Đức vào năm 1953, phương pháp áp suất thấp được K. Ziegler sáng chế. Với phương pháp này, một chất polyethylen với các đại phân tử thẳng hàng được hình thành khi sử dụng chất xúc tác đặc biệt. Các đại phân tử có thể nằm rất sát nhau: PE-HD – một chất có tỷ trọng cao (HD = high density) và độ kết tinh cao hơn – được hình thành.
Công thức cấu tạo của polyethylen
Tính chất:
Về cơ bản, PE-HD rắn hơn và dai hơn PE-LD. Các đặc tính cơ bản sau đây có thể nhận thấy ở nhiều loại PE khác nhau.
PE rất bền hóa học, chống acid, kiềm, dầu và PE-HD cũng chống xăng.
PE có thể trở nên giòn bởi tia cực tím, pha trộn một ít bồ hóng có thể giải quyết được vấn đề này.
Do cấu trúc kết tinh từng phần, PE trắng đục như sữa (mờ) nếu không trộn màu trước đó. Do PE-LD có độ kết tinh thấp nên các sản phẩm có thành mỏng (thí dụ: màng) nhìn trong suốt.
Tính thấm khí tương đối lớn với các chất có mùi và hương liệu.
Theo Fine Mold tìm hiểu chất có độ bền thấp hơn rõ ràng so với loại kim. Điều này quan trọng đối với các ứng dụng để biết những thay đổi đặc tính hoặc trạng thái của chúng khi thay đổi nhiệt độ. Mặt khác, chính những thay đổi đặc tính này là tiền đề cho nhiều phương pháp gia công của các chất dẻo. Tính toán quyết định cho gia công và ứng dụng phụ thuộc trước hết ở mức độ bền bỉ xé rách (sigma-R) và độ giãn dài để bảo toàn ep (epsilon-R) theo nhiệt độ. Điều này thuộc tính phụ được mô tả trong trạng thái biểu đồ.
1. Tính nhiệt của nhựa nhiệt dẻo vô định hình mà Fine Mold tìm hiểu được
Biểu đồ trạng thái của nhiệt độ vô định hình
Nhựa nhiệt dẻo vô định hình cho ba vùng trạng thái khác nhau được chuyển tiếp một cách liền lạc khi nung nóng: rắn, đàn hồi nhiệt và dẻo nhiệt. Trong mỗi trạng thái đều có phương pháp gia công điển hình tương ứng. Ở trạng thái rắn, các sợi sợi xoắn ốc tương đối chặt chẽ và được gắn bó với nhau bởi các phụ trợ năng lượng hóa trị. Hệ quả là độ bền xé cao và khả năng giãn nở. Trong vùng nhiệt độ hóa học (ET), còn được gọi là vùng nhiệt độ kết thúc đông lạnh hay nhiệt độ chuyển hóa thủy tinh, các phân tử bắt đầu dao động càng sớm càng được làm nóng. Khoảng cách của chúng càng lớn, làm cho các lực hóa trị phụ càng lúc càng yếu hơn. Từ đó độ bền sẽ giảm rất nhanh, ngược lại độ giãn lại gia tăng mạnh. Trạng thái đàn nhiệt đã đạt được. Khi tiếp tục gia nhiệt, nhựa nhiệt độ mất đi hoàn toàn bền vững, bắt đầu và trở thành thành nhiệt nhiệt. Các năng lực hóa trị hoàn toàn đã được gỡ bỏ, các phân tử sợi có thể được chuyển dịch và đập vào nhau. Nếu nhiệt độ tiếp tục tăng, các năng lực chính bị phá vỡ: chất dẻo tự động phân hủy.
2. Tính nhiệt của nhựa nhiệt dẻo kết tinh từng phần theo Fine Mold tìm hiểu
Biểu đồ mô tả trạng thái nhiệt nhựa dẻo kết tinh từng phần
Theo Fine Mold tìm hiểu nhựa nhiệt dẻo kết tinh từng phần có trạng thái. Ở nhiệt độ thật thấp dưới O °C, nhựa nhiệt dẻo cứng-giòn, có độ bền cao và độ co đơn giản. Có thể xác định phụ trợ hóa trị. Khi nung nóng, phân tử cấu trúc của loại nhựa này xuất hiện rõ ràng cấu hình bị hỏng và kết nối vùng. Trong vùng nhiệt độ hóa mềm ET, năng lực liên kết của các vùng vô định hình thiết bị tiêu điểm: trạng thái cứng-dai đạt được ở nhiệt độ thường, với độ bền được tạo ra chỉ bằng năng lực hóa trị phụ cao trong những tinh thể . Nếu sức mạnh này giảm đi khi nhiệt độ gia tăng, nhựa nhiệt dẻo sẽ tiến đến trạng thái nhiệt đàn hồi. Trong vùng nhiệt độ nóng kết tinh KT, năng lượng hóa trị phụ biến mất hoàn toàn do sự chuyển động mạnh mẽ của phân tử, nhựa nhiệt dẻo biến sang thể nhiệt. Hiện tại, các phân tử sợi có thể trượt lên nhau. Độ bền đối với việc tiếp tục giảm dần đến 0 trong vùng nhiệt độ. Điều dễ thấy là có thể đạt được tốc độ giãn cao sau nhiệt độ nóng của cơ thể. Điều lý thú ở đây là khối nóng chảy của nhựa nhiệt kết tinh từng phần không nhuốm màu, nó trong suốt như thủy tinh và trở thành đục sữa khi được làm mát dưới nhiệt độ nóng chảy kết tinh KT. Khi đó, các phân tử trong vùng kết tinh dịch chuyển lại gần nhau hơn và sự phát sinh co ngót lớn hơn rõ ràng hơn so với trong trường hợp nhựa nhiệt độ vô định hình.
3. Tính nhiệt của nhựa nhiệt rắn theo Fine Mold tìm hiểu
Biểu đồ trạng thái của nhựa nhiệt rắn
Đại phân tử nhựa nhiệt rắn có mạng lưới ba chiều phần lớn rất chắc chắn, cho nên lực hóa trị phụ hầu như không quan trọng. Như thế, đặc tính của nhựa nhiệt rắn ít thuộc vào nhiệt độ. Khi bị nung nóng, độ bền chỉ giảm không đáng kể cho đến khi nó bị phân hủy từ nhiệt độ phân hủy ZT trở đi. Do đó, nhựa nhiệt rắn rất ổn định hình dạng khi gia tăng nhiệt độ. Ngược lại, tốc độ giãn nở tăng lên rất ít, vì thế không thể tăng dạng biến. Trong các vùng cứng, nhựa nhiệt rắn có thể được gia công cắt gọt, phủ lớp và ghép nối bằng cách đóng khung. Nhựa nhiệt rắn được tạo chỉ trong mạng trạng thái không kết nối. Khi gia công đúc phun, ép đùn, ép nóng hoặc tạo bọt phải có sự kết nối mạnh mẽ. Như thế nhựa nhiệt rắn chỉ được tạo ra một lần và sau đó chỉ có thể tái chế như chất hoạt động.
4. Tính nhiệt của đàn hồi nhựa do Fine Mold tìm hiểu được
Biểu đồ trạng thái của diễn đàn hồi phục
Biểu đồ trạng thái được tìm thấy bên dưới vùng nhiệt độ kết thúc đông ET (còn gọi là nhiệt độ chuyển tiếp thủy tinh), nhựa đàn hồi có độ bền tương đối cao và độ giăn bảo trì tương đối thấp: nhựa đàn phục hồi khá cứng. Ở vùng nhiệt độ kết thúc đông hơn, độ bền giảm nhanh, ngược lại độ giãn nở tăng mạnh. Ở nhiệt độ cao hơn nữa, cả hai đặc tính chỉ bị ảnh hưởng rất ít bởi nhiệt độ. Tính năng này là mạng lưới kết nối thưa thớt. Bắt đầu từ vùng nhiệt độ phân hủy thì các đại phân tử sẽ tăng dần bị phá vỡ do nhiệt độ. Vị trí của vùng ET có thể được điều chỉnh theo mức độ hợp lý và phù hợp của mạng kết nối. Đặc biệt trong lốp xe, vị trí này đóng vai trò quan trọng trong trò chơi. Như vậy, không có sự khác biệt nào giữa các chi tiết ở lốp xe mùa đông và mùa hè mà kể cả việc điều chỉnh pha trộn cao su cũng quan trọng. Đối với lốp xe mùa đông, vùng ET của cao su dùng cho châu Âu không thể cao hơn – 25 °C, như thế cao su luôn mềm để bám lên mặt đường. Lốp xe mùa hè đạt đến đàn hồi cứng -dai dẻo ở nhiệt độ khoảng + 5 °C và rõ ràng bất lợi khi có tuyết và băng. Ngược lại, thoáng hợp cao su mềm của lốp xe mùa đông sẽ bị mài mòn nhanh ở nhiệt độ mùa hè.
Biểu đồ trạng thái được tìm thấy bên dưới vùng nhiệt độ kết thúc đông ET (còn gọi là nhiệt độ chuyển tiếp thủy tinh), nhựa đàn phục hồi có độ bền tương đối cao và độ giăn bảo trì tương đối thấp: nhựa đàn phục hồi khá cứng. Ở vùng nhiệt độ kết thúc đông hơn, độ bền giảm nhanh, ngược lại độ giãn nở tăng mạnh. Ở nhiệt độ cao hơn nữa, cả hai đặc tính chỉ bị ảnh hưởng rất ít bởi nhiệt độ. Tính năng này là mạng lưới kết nối thưa thớt. Bắt đầu từ vùng nhiệt độ phân hủy thì các đại phân tử sẽ tăng dần bị phá vỡ do nhiệt độ. Vị trí của vùng ET có thể được điều chỉnh theo mức độ hợp lý và phù hợp của mạng kết nối. Đặc biệt trong lốp xe, vị trí này đóng vai trò quan trọng trong trò chơi. Như vậy, không có sự khác biệt nào giữa các chi tiết ở lốp xe mùa đông và mùa hè mà kể cả việc điều chỉnh pha trộn cao su cũng quan trọng. Đối với lốp xe mùa đông, vùng ET của cao su dùng cho châu Âu không thể cao hơn – 25 °C, như thế cao su luôn mềm để bám lên mặt đường. Lốp xe mùa hè đạt đến đàn hồi cứng -dai dẻo ở nhiệt độ khoảng + 5 °C và rõ ràng bất lợi khi có tuyết và băng. Ngược lại, thoáng hợp cao su mềm của lốp xe mùa đông sẽ bị mài mòn nhanh ở nhiệt độ mùa hè.
Theo Fine Mold tìm hiểu rằng tất cả các chất dẻo được hình thành từ nhứng phân tử rất lớn được gọi là đại phân tử, hay còn gọi là chất trùng lặp. Chúng tôi đã được hợp nhất từ các phân tử đơn. Các loại phân tử đơn và các nhóm chức năng kết nối vào ảnh của chúng cũng ảnh hưởng đến 1 số tính chất tổng hợp đặc biệt của chất dẻo được tạo ra. Các phản ứng tạo ra cũng ảnh hưởng đến một số đặc tính của chất dẻo.
1. Cùng Fine Mold phân loại theo phản ứng tạo thành
Hợp chất chất lượng nhất
Chất hợp nhất là sản phẩm của sự hợp nhất phản ánh vòng lặp trùng lặp. Ở đây, các polyme được thiết lập thành công thông qua việc kết nối các bản sao liên kết.
Supusus chất lượng
Chất phản ứng trùng lặp là sản phẩm của phản ứng phản ứng phản ứng phản ứng phản ứng. Polymer được thiết lập thành công bằng cách loại bỏ các sản phẩm phụ.
Đột nhập chất
Vòng lặp chất lượng là sản phẩm của vòng lặp phản hồi cộng đồng. Polyme đã được thiết lập thành công nhờ việc chuyển vị trí của nguyên tử H.
2. Cùng Fine Mold phân loại theo tính năng nhiệt
Các loại monome tùy chỉnh có thể được sử dụng và các nhóm chức năng của chúng có thể tạo thành các polyme dưới dạng sợi phân tử đại điện không mang mạng kết nối, hoặc đại phân tử kết nối mạng lưới khít hay mạng thưa thớt trong không gian ba chiều. Đối với các polyme không kết nối mạng thì các phân tử riêng lẻ, như ở đa số chất rắn và chất lỏng, được giữ với nhau bằng năng lượng hút điện tử. Người ta gọi đó là hóa trị phụ. Độ bền của kực hóa trị phụ thuộc vào nhiệt độ, nghĩa là chúng sẽ yếu dần khi gia nhiệt, nhưng sẽ tự tái tạo khi nhiệt độ giảm dần. Do đó, các chất trùng lặp không kết hợp có thể trải qua trạng thái rắn và sống sót với giai đoạn chuyển tiếp liên tục. Ngược lại ở sản phẩm kết nối mạng, lực liên kết hóa học giữ chặt kết nối giữa các đại phân tử, chúng ta hầu như không phụ thuộc nhiệt độ.
Nhựa nhiệt dẻo
Nhựa nhiệt dẻo có phân tử đại tử ở dạng sợi không kết nối mạng hóa học. Các đại phân tư này được giữ bằng chất lỏng hóa trị có thể bị ảnh hưởng bởi nhiệt. Vì vậy khi nung nóng, nhựa nhiệt dẻo có thể biến đổi từ ứng dụng sang trạng thái gần như hoàn thiện. Khi nung nóng hơn nhiệt độ phân hủy, những kết nối hóa học bị phá vỡ, chất dẻo tự động phân hủy.
Tính năng nhiệt độ
Đặc biệt, nhựa nhiệt dẻo có thể được gia công bằng nhiều phương pháp khác nhau. Chúng tôi có thể ứng dụng công nghệ tạo dạng nguyên mẫu phổ biến, thí nghiệm bằng cách đúc phun hoặc ép đùn, ứng dụng gia công biến dạng phổ biến và thường được ghép nối tốt bằng hàn. Ngoài ra, chúng có thể thành công nhiều lần. Vì thế chúng được sử dụng thường xuyên.
Nhựa nhiệt dẻo
Nhựa cứng hay còn gọi là nhựa nhiệt rắn (duromer từ tiếng Latin durus = cứng) là các loại phân tử dạng sợi sợi mắt lưới khít trong không gian ba chiều, tức là có rất nhiều liên kết hóa học gọi là lực hóa trị chính, chúng có tính năng nhiệt độ cho đến khi phân hủy nhiệt độ gần. Do đó nhựa nhiệt rắn giữ được hình dạng và độ bền như không thay đổi khi gia nhiệt.
Đặc tính của nhựa nhiệt rắn
Nhựa nhiệt dẻo chỉ biến đổi một lần, sau đó chỉ có thể gia công cắt gọt. Sau khi kết nối mạng, chúng cũng không thể biến đổi và không thể kết nối được nữa.
Đàn hồi phục hồi nhựa
Tương tự như trong các loại nhựa ko rắn, dạng sợi phân tử trong đàn hồi nhựa liên kết với nhau bằng năng lượng hóa trị chính, tuy nhiên ít hơn rõ ràng. Người ta gọi là mạng lưới thưa thớt. Nhựa đàn hồi đến hơn 100%. Khả năng này bị ảnh hưởng không đáng kể khi gia nhiệt. Chỉ khi làm nguội dưới nhiệt độ chuyển hóa thủy tinh, chúng trở nên giòn.
Đặc tính của đàn hồi phục nhựa
Nhựa dần hồi chỉ cí thể gia công biến dạng một lần. Sau khi kết mạng, chúng không thể biến dạng và không thể hàn được nữa.
Theo nghiên cứu Fine Mold khoa học hóa học nghiên cứu cấu tạo và tính chất của các chất và hợp chất. Quy trình hóa học là sự biến đổi của một chất để hình thành một chất mới, thí nghiệm chế tạo chất dẻo từ dầu hỏa.
1. Theo Fine Mold tìm hiểu cấu hình tạo nguyên tử
Từ Hy Lạp cổ, Democritus đã đưa ra khái niệm rằng tất cả các chất được tạo từ các hạt nhỏ nhất không thể phân tách được nữa, các nguyên tử (chữ Hy Lạp Atomos=không chia nhỏ được). Cấu hình được tạo từ một loại nguyên tử được gọi là nguyên tố hóa học. Ngày nay ta đã biết 92 nguyên tố tự nhiên và hàng loạt nguyên tố nhân tạo được tạo trong phòng thí nghiệm. Nguyên tử nhỏ: thí dụ nguyên tử thủy điện được xem là nhỏ nhất có đường kính10-10m (1 Angstrom). Các nguyên tử không thể nhìn thấy trực tiếp được, vì chúng được thực hiện qua các mô hình được chấp nhận là đúng khi có thể bị bỏ qua.
So sánh kích thước
Một nguyên tử là đơn vị nhỏ nhất của một nguyên tố hóa học và được tạo ra nên tất cả các đặc tính của chất được cấu hình đều thành công.
Cuối thế kỷ 19, người ta nhận ra rằng không thể biểu hiện diễn nguyên tử như nnuwngx hình cầu thu nhỏ mà phải qua các hạt nhỏ hơn nữa: electron (điện tử) mang điện âm, proton mang điện tích dương và neutron không mang điện.
Nguyên tử mô hình của Rutherford theo Fine Mold thu thập được?
Năm 1911, nhà vật lý Anh Ernest Rutherford, dựa trên “thí nghiệm phân tán” nổi tiếng của mình, đề xuất một mô hình nguyên tử riêng. Ông bắn các hạt @, hạt nhân nguyên tố heli mang điện dương, vào một lá vàng tinh và nhận thấy hầu hết các hạt @ này xuyên qua lá vàng, chỉ một số ít bị lệch hướng. Ông hình dung nguyên tử gồm một nhân rất nhỏ mang điện dương, đã làm trôi các hạt @, và nhiều electron nhỏ hơn xoay quanh nhân giống như mặt trăng quay quanh trái đất.
Nguyên tử theo Rutherford
Nguyên tử mô hình của Bohr
Niels Bohr, nhà vật lý Đan Mạch, đã cải tiến ý tưởng của Rutherford. theo ông, electron không nằm trên các quỹ đạo tròn mà di chuyển xung quanh nhân trong các qũy đạo mặt cầu công, được gọi là các lớp vỏ electron. Electron cùng một lớp vỏ có năng lượng như nhau. Càng nhận xa, electron càng có năng lượng cao hơn. Electron có thể “nhảy” từ lớp vỏ này sang lớp vỏ khác . Khi chuyển vào lớp vỏ gần nhân, chúng phát ra năng lượng dư dư dưới dạng ánh sáng. Khi nhân năng lượng, electron chuyển ra lớp vỏ xa hơn và nguyên tử ở trang thái kích thích.
Nguyên tử He theo Bohr
Các electron trong những lớp cỏ tạo thành vỏ bọc nguyên tử.
Mỗi lớp chứa số electron khác nhau, lớp trong cùng, vỏ K, chứa tối đa 2 eletron. Lớp kế tiếp L chưa đủ 8 electron, các lớp sau có khả năng tiếp nhận cao hơn. Mỗi nguyên tử có thể có nhiều nhất là 7 lớp vỏ electron với số ngày điện tử tăng dần từ trong ra ngoài. Tuy nhiên, lớp ngoài cùng chỉ có thể không có tối đa 8 electron. Các electron ở ngoài cùng được gọi là electron hóa trị.
Bao nhân nguyên tử bao gồm các hạt proton và neutron. Các neutron gắn kết nhân lại, vì nếu không thì các proton mang điện dương sẽ cung cấp cho nhau số neutron, ví dụ tritium là một dạng hydro có 1 proton và 2 neutron.
Nhờ điện tích trái dấu proton và electron mà vỏ và nhân nguyên được giữ chặt với nhau.Thành phần chuyển động của các eletron xung quanh hạt nhân tạo ra lực ly tâm cân bằng với sức hút của nhân.
Các lớp vỏ electron
Mô hình quỹ đạo (Mô hình quỹ đạo)
Mô hình nguyên tử của Bohr vừa đủ để hiểu về nhiều phản ứng hóa học, cũng như cách sản xuất chất dẻo. Tuy nhiên, mô hình này đã được mô hình quỹ đạo vượt qua. Mô hình quỹ đạo từ bỏ giả thuyết cho rằng các electron chuyển động nhanh trên các vòng quanh hạt nhân và vị trí của nó luôn được biết rõ. Ngược lại, có các vùng hình cầu, hình kết quả hay thậm chí chí hình hoa hồng, trong đó có tối đa 2 electron với hiệu suất 90%.
Theo Fine Mold vật liệu là chất hoặc hợp chất được người dùng sử dụng để tạo ra các sản phẩm khác. Nói cách khác, vật liệu được nhập vào trong một quá trình sản xuất hoặc chế độ tạo. Trong công nghiệp, vật liệu thường là những sản phẩm chưa hoàn thiện và được sử dụng để tạo ra những sản phẩm cao cấp hơn.
1. Khuôn mẫu giải đáp kỹ thuật vật liệu là gì?
Trong kỹ thuật, tầm quan trọng của chất dẻo ngày càng tăng. Các yêu cầu của một chi tiết được đáp ứng qua việc lựa chọn chất dẻo với các tính chất phù hợp.Tất nhiên khả năng sử dụng chất dẻo ở chế độ hạn chế. Ví dụ: không có chất nào có khả năng dẫn điện như kim loại. Vì lý do này, điều quan trọng là ta cần tìm hiểu sâu nhiều loại vật liệu khác nhau. Một vật liệu có thể được sử dụng hoặc không thuộc nhiều vào nhiệm vụ của chế độ chi tiết. Thông thường có nhiều vật liệu đủ điều kiện cho một ứng dụng. Làm được điều có lợi và bất lợi phải được cân nhắc như nhau.
1.1. Phân loại vật liệu
Để có thể lựa chọn loại vật liệu phù hợp cho một ứng dụng nhất định, các vật liệu có tính chất gần giống nhau được phân thành nhiều nhóm. Trong mỗi nhóm, các vật liệu có một thành phần chất chung và một thành phần chất riêng. Các tính chất này được xác định trong lĩnh vực ứng dụng của từng vật liệu. Để có cái nhìn tổng quát, trước tiên cần phải phân biệt giữa kim loại, phi kim và vật liệu tổng hợp. Mỗi nhóm này lại có thể chia thành nhiều nhóm nhỏ.
Kim loại
Trong kim loại, người ta phân biệt kim loại đen và kim loại màu.
Cùng Fine Mold tìm hiểu về kỹ thuật vật liệu.
Thép dùng làm chi tiết máy phải có độ bền cao.
Các chi tiết có dạng phức tạp được chế tạo bằng cách hợp lý hóa giá cả.
Trong kim loại màu, những vật liệu có khối lượng riêng lớn hơn 5kg/dm3 được gọi là kim loại nặng ̣(Thí dụ đồng, sơn và nến). Các vật liệu có khối lượng riêng nhỏ hơn được gọi là kim loại nhẹ (thí dụ nhôm, magnesi và titan)
Kim loại màu được ưu tiên lựa chọn nhờ các đặc tính của nó. Ví dụ về loại nặng như đồng có khả năng truyền dẫn điện đặc biệt. Để giảm khối lượng, ngày nay nhiều chi tiết máy được chế tạo từ nhôm.
Vật liệu phi kim loại/Vật liệu tổng hợp (vật liệu tổng hợp)
Cùng Fine Mold tìm hiểu về kỹ thuật vật liệu.
Các vật liệu như đá, gỗ và amiăng đều có tính chất thiên nhiên nên được gọi là vật liệu thiên nhiên. Chất lượng là nhóm lớn nhất của các nhân vật được tạo. Chất ổn định bình thường và cách điện. Nhựa nhiệt dẻo (Thermoplast) tạo nên nhóm lớn nhất trong chất dẻo. Chúng bao gồm nhiều loại, từ đàn tính đến dạng bền và cứng. Các chất đàn hồi có thể là chất đàn hồi cao su hoặc đàn hồi cứng. Ví dụ các biến của các loại đàn hồi cao su được sử dụng cho thùng hợp vỏ xe. Loại đàn hồi phục được sử dụng để sản xuất máy chân. Các chi tiết bằng nhựa nhiệt rắn (Duroplast) cứng và ổn định dạng nhiệt độ cao. Các thành phần bên cạnh chất liệu thủy tinh, thủy tinh và vật liệu (sành, sứ) cũng thuộc nhóm này.
Vật liệu composite gồm nhiều chất khác nhau hợp lại. Qua đó các tính chất của từng vật liệu được cải thiện một cách có chủ đích. Ta có thể phân biệt giữa vật liệu thiêu kết và chất dẻo gia cường bằng sợi thủy tinh.Thí dụ: khi kết hợp sợi thủy tinh (có độ bền cao) với một chất dẻo (nhẹ), ta được chất dẻo gia cường bằng sợi thủy tinh rất chắc và nhẹ.
Ở các hợp kim cứng, độ cứng cao của hạt vật liệu cứng được kết hợp với độ dai của kim loại nền. Do đó vật liệu hỗn hợp này có thể được sử dụng rất tốt làm vật liệu cắt gọt, thí dụ lưỡi khoan.
Phụ liêu và năng lượng
Phụ liệu và năng lượng thật ra không phải là vật liệu nhưng lại rất cần cho việc sản xuất các chi tiết. Để vận hành máy đúc phun, người ta cần điện năng cho bộ truyển động và bộ gia nhiệt. Để nâng cao bộ bền của máy, các ổ trục phải được bôi trơn bằng nhờn (dầu, mỡ).